III.-Aspartame (E951)
1. Giới thiệu chung
Vị ngọt của aspartame được tìm ra cũng hoàn toàn ngẫu nhiên bởi Jame Schlatter. Chất này được nhà hóa học James Schlatter làm việc cho tập đoàn G D Searle phát hiện rất tình cờ vào năm 1965 trong khi ông đang thử nghiệm thuốc chống lở loét vết thương. Ông làm đổ một ít aspartame dính lên tay. Ông nghĩ chất này không độc nên đã tiếp tục công việc mà không rửa tay. Và thế là ông đã tình cờ phát hiện ra vị ngọt của aspartam khi nếm phải nó trên ngón tay.
Sau nhiều năm kiểm tra độ độc hại của aspartame, FDA đã công nhận aspartame được dùng như một chất tạo ngọt vào năm 1980. Không chỉ được dùng ở Mĩ, asparatme đã được dùng ở hơn 93 quốc gia.
Trên thị trường aspartame được đóng thành những gói nhỏ màu xanh với nhãn hiệu là Equal, NutraSweet và NatraTaste
- Không ổn định ở nhiệt độ và pH cao.
- Phân hủy dần trong nước nên nước ngọt có aspartam không giữ được lâu. Cho trộn aspartam với saccharin hoặc acesulfam K thì hỗn hợp ngọt hơn và ổn định hơn khi hai chất đứng riêng một mình.
3. Điều chế
Aspartam được cấu tạo từ acid aspartic, phenylalanin và metanol. Các thành phần này đều tồn tại trong tự nhiên. Tuy nhiên bản thân aspartam không tồn tại trong tự nhiên. Nó được điều chế thông qua các quá trình lên men và tổng hợp.
a. Lên men :
Dùng số lượng lớn các vi khuẩn đặc trưng gồm B.flavum và C.glutamicum để sản xuất ra các acid amin L-aspratic và L-phenylalanin.
- Bắt đầu quá trình lên men, một mẫu vi khuẩn thuần chủng được cho vào ống nghiệm có chứa các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của nó. Sau đó vi khuẩn bắt đầu nhân lên. Khi số lượng đã đủ lớn, chúng được chuyển vào một thùng mầm.
- Trong thùng mầm này là một môi trường lý tưởng cho sự phát triển của vi khuẩn gồm nước ấm, thức ăn, nguồn cacbon và nguồn nitơ.
- Thức ăn là các loại cacbonhydrat như mật mía, đường glucose hoặc saccharose.
- Nguồn cacbon như acid acetic, rượu hoặc các hidrocacbon.
- Nguồn nitơ như NH3 lỏng hoặc urê.
Đó là những điều kiện chủ yếu để vi khuẩn tổng hợp ra các acid amin mong muốn. Ngoài ra còn một số các yếu tố khác như các vitamin, acid amin…Thùng mầm được đặt trong một máy khuấy và một thiết bị bơm để giải phóng lượng khí sinh ra trong quá trình này.
- Đến thời điểm thích hợp, hỗn hợp trong thùng mầm tiếp tục được chuyển sang thùng lên men. Nó có cấu tạo tương tự như thùng mầm nhưng lớn hơn. Ở đây vi khuẩn phát triển và tạo ra số lượng lớn các acid amin.
- Các acid amin này sẽ tiếp tục trải qua giai đoạn tinh chế. Đầu tiên người ta dùng thiết bị phân ly để loại phần lớn lượng vi khuẩn. Các acid amin cần thiết sẽ được tách ra và tinh chế bằng cột sắc kí trao đổi ion. Từ cột này các acid amin được bơm vào thùng kết tinh. Sau đó vào thiết bị phân ly tinh thể. Cuối cùng được làm khô để chuẩn bị cho giai đoạn tổng hợp aspartam.
b. Tổng hợp :
Aspartame có thể được tổng hợp bằng nhiều phương pháp hóa học khác nhau. Một phương pháp thường dùng như sau :
- Đầu tiên các acid amin phải qua quá trình xử lí: L - Phenylalanin thu được từ quá trình lên men được cho phản ứng với metanol tạo thành hợp chất gọi là L – phenylalanin metyl ester. Còn acid aspartic phải qua một quá trình phản ứng để che các vị trí trong phân tử có thể ảnh hưởng đến phản ứng tạo aspartam, đảm bảo phản ứng chỉ xảy ra ở các vị trí cần thiết.
- Sau khi đã được xử lý phù hợp, chúng được bơm vào bình phản ứng và trộn lẫn trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng. Kế đó nhiệt độ được tăng lên 650C (1490F) và duy trì trong 24 giờ nữa. Sau đó phản ứng được làm nguội đến nhiệt độ phòng. Nó được pha loãng với dung môi thích hợp và được làm kết tinh ở -180C (00F). Tinh thể thu được sẽ được lọc để tách riêng ra rồi làm khô. Những tinh thể này chỉ là sản phẩm trung gian và dùng cho phản ứng kế.
+ Chúng được chuyển hóa thành aspartam bằng phản ứng với acid acetic. Phản ứng này được thực hiện trong một cái bồn lớn chứa dung dịch acid, chất xúc tác Pd và H2. Chúng được trộn lẫn và cho phản ứng trong 12 giờ.
c. Tinh chế :
Chất xúc tác Pd được loại bỏ bằng cách lọc và chưng cất để thu dung môi. Phần chất rắn còn lại được tinh chế bằng cách hòa tan trong dung dịch etanol và được kết tinh lại. Những tinh thể này sẽ được lọc và làm khô cho ra sản phẩm cuối cùng đó là bột aspartam.
4. Ứng dụng :
Hiện nay, aspartam là chất ngọt rất được ưa chuộng. Nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới với sự hiện diện trong hơn 6000 loại thực phẩm khác nhau như bánh kẹo, yogurt, trong các thức uống ít nhiệt năng như Coke diete, Pepsi diete vv…và cả trong dược phẩm