Xúc tác chiếm một vị trí rất quan trọng trong ngành công nghiệp hóa chất. Ở Mỹ, 75% sản phẩm và 90% các quá trình sản suất hóa chất dựa trên xúc tác. Về khía cạnh lịch sử của khoa học này, hiện nay chưa có nhiều tài liệu đề cập đến. Theo kiểu truyền thống, có thể thấy khoa học xúc tác phát triển qua
6 giai đoạn.
1. Từ thởi thượng cổ, giả kim thuật đến hóa học ( -1834). Lên men rượu từ glucose được biết từ thời thượng cổ; chuyển hóa rượu thành ether bằng xúc tác acid 1552; hòn đá triết học biến kim loại thành vàng thời giả kim thuật; định luật bảo toàn vật chất dựa trên ý tưởng của Lavoisier, Cavendish, Priestley, Berthollet, Proust, Gay-Lussac, Dalton phân biệt pưhh và pư xúc tác. Fulhame 1794, Kirchhoff 1812 cho thấy chất xúc tác không thay đổi trong pưhh. Nghiên cứu pư O2+H2 trên xúc tác Pt do Humphry Davy 1817, Erman 1818, Doebereiner 1822. Henry 1825 nghiên cứu nhiểm độc xúc tác Pt bởi dẫn xuất S. Turner kết hợp H2+Cl2 trên Pt, Phillips phát triển quá trình xúc tác thương mại đầu tiên, oxy hóa SO2 trên Pt. Faraday nghiên cứu ảnh hưởng đk xử lý ban đầu, nhiểm độc và phục hồi xúc tác Pt trên pư O2+H2. Giai đoạn này kết thúc
năm 1835 khi Berzelius phân tích hệ thống các kết quả và đưa ra thuật ngữ
Catalysis, mở ra một kỷ nguyên mới cho khoa học xúc tác.
2. Từ kinh nghiệm đến khoa học (1835-1887).
PS. Đói bụng quá, dừng ở đây về nấu cơm, hẹn anh em ngày mai viết tiếp.