1/ Hiệu ứng nhớ (memory efect) chỉ xảy ra với pin NiCd có sức điện động phổ biến là 1.2V. Hiện nay pin này đã gần như vắng mặt trên thị trường chủ yếu do độc tính của cadmium với môi trường. Pin NiCd có độ bền khá tốt, có chu kì sống tới 1500-2000 lần sạc. Tính về năng lượng trên 1 đơn vị khối lượng hay thể tích thì là 40-60Wh/kg pin và 100Wh/lit. Pin lithium-ion về tổng thể cho các chỉ số tốt hơn như 160Wh/kg và 270 Wh/lit. Đặc biệt hiệu suất phóng-nạp luôn đạt trên 99% (theo lý thuyết và khi pin còn mới).
2/ Chất điện giải trong pin Lithium-ion thường gồm 1 muối như LiPF6, LiBF4, LiClO4 trong 1 dung môi hữu cơ. Dung môi hữu cơ có thể bị phân hủy ở điện cực trong quá trình sạc lần đầu và kết hợp với các muối tạo nên dạng rắn SEI (solid electrolyte interphase) dẫn điện nhờ ion Li+
Cần chú ý là việc thay thế các muối khác nhau trong vật liệu cathode sẽ dẫn đến một số ảnh hưởng trái ngược như làm tăng sức điện động lý thuyết nhưng lại làm giảm năng lượng riêng. VD trên thị trường ta có thể thấy LiCoO2 cho sức điện động là 3,7 V đạt 140 mAh/g trong khi LiMnO2 cho 4,0V nhưng chỉ được100 mAh/g.
Các nghiên cứu vẫn đang được tiếp tục nhưng trong lĩnh vực nguồn điện còn tồn tại rất nhiều khó khăn để đi từ PTN ra đến sản phẩm và được sử dụng rộng rãi:
VD1 Panasonic đã có patent từ lâu về các loại pin 4.2-4.5V trên nền Co nhưng hiện nay thương mại hóa chưa được http://www.wipo.int/pctdb/en/wo.jsp?wo=1997039489
VD2 Fuel cell với hiệu suất chuyển hóa năng lương lý thuyết 100% có triển vọng lớn lao. Vơi cùng khối lượng như pin lithium-ion, fuel cell nếu đưa vào thiết bị mobile cho thời gian phục vụ lâu hơn rất nhiều, khi cần thì sạc hydro. Tuy nhiên với việc thắt chặt an ninh hàng không như hiện nay việc mang fuel cell vào điện thoại và mang lên máy bay là điều không tưởng